Lành tính là gì? Các công bố khoa học về Lành tính
Lành tính là thuộc tính đánh giá tính chất, sự tử tế, không có tính xấu và không gây hại. Người, sự việc, hiện tượng hay bất kỳ thứ gì được xem là "lành tính" t...
Lành tính là thuộc tính đánh giá tính chất, sự tử tế, không có tính xấu và không gây hại. Người, sự việc, hiện tượng hay bất kỳ thứ gì được xem là "lành tính" thường không mang tính độc hại hoặc nguy hiểm và có tác động tích cực đến môi trường xung quanh. Thí dụ, một khối u lành tính trong y học thường không gây ra bệnh tật hay nguy hiểm đến tính mạng, trong khi một khối u ác tính là nguyên nhân của bệnh ung thư và có khả năng lan sang các bộ phận khác trong cơ thể.
Lành tính là một thuật ngữ thường được sử dụng trong lĩnh vực y học và sinh học để mô tả tính chất của một bệnh hoặc một tình trạng không gây hại hoặc không nguy hiểm đến sức khỏe.
Trong y học, các khối u, quá trình vi khuẩn, nhiễm trùng, sẹo, phản ứng dị ứng hay bất kỳ sự biến đổi sinh lý hay chức năng nào có thể được xem là lành tính nếu chúng không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và không lan sang hay gây tổn thương tới mô hay các cơ quan lân cận.
Trong sinh học, trong thảo dược học và cả nông nghiệp, các loại cây, cây cỏ, hay côn trùng được xem là lành tính nếu chúng không có khả năng gây nguy hiểm hoặc gây hại cho người và môi trường xung quanh. Ngược lại, một số cây cỏ độc hại, côn trùng gây hại, hay loài vi khuẩn gây bệnh được xem như ác tính vì chúng có thể gây hại và đe dọa sức khỏe hay tồn tại của sinh vật khác.
Tóm lại, việc xem xét tính chất lành tính là quan trọng trong việc đánh giá các hiện tượng hay sự việc trong y khoa, sinh học và các lĩnh vực liên quan để đảm bảo an toàn và đánh giá rủi ro một cách chính xác.
Lành tính trong y học:
Trong y học, "lành tính" được sử dụng để mô tả các bệnh lý, khối u hay biến đổi trong cơ thể mà không gây nguy hiểm đến tính mạng hay không có khả năng lan sang và tấn công các cơ quan khác trong cơ thể. Các khối u lành tính thường không gây ra bệnh ung thư và thường không cần điều trị gấp. Chúng có tốc độ tăng trưởng chậm và không xâm lấn vào các cấu trúc xung quanh. Một số ví dụ về khối u lành tính bao gồm:
1. U xoắn tử cung lành tính: Đây là một loại khối u trong tử cung, không có tính chất ác tính và thường không gây ra triệu chứng hoặc vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
2. U lành tính trong tuyến tiền liệt: Đây là một loại khối u nguyên phát phổ biến ở nam giới. Dường như chúng không gây hại cho người mắc bệnh và thường không cần điều trị.
3. U lành tính trong tuyến vú: Có nhiều loại u lành tính trong tuyến vú, bao gồm u áo ven (fibroadenoma) và u tuyến nang (cystadenoma). Thường không gây ra nguy hiểm và có thể được gỡ bỏ nếu cần thiết cho mục đích chẩn đoán hoặc giảm triệu chứng.
Lành tính trong sinh học và thảo dược học:
Trong sinh học và thảo dược học, "lành tính" được sử dụng để mô tả các loại cây, cây cỏ, hay các chất liệu tự nhiên mà không gây hại cho con người hay môi trường xung quanh. Ví dụ:
1. Cây cỏ lành tính: Có nhiều loại cây cỏ lành tính mà không có tính chất độc hại và không gây nguy hiểm cho con người và động vật. Chúng có thể được sử dụng trong thảo dược học và làm thực phẩm trong nông nghiệp hữu cơ.
2. Thực phẩm lành tính: Các thực phẩm tự nhiên không chứa chất phụ gia, chất bảo quản hay thuốc trừ sâu được coi là lành tính. Chúng có lợi cho sức khỏe con người và không gây nguy hiểm khi sử dụng.
3. Chất liệu tự nhiên lành tính: Ví dụ, các vật liệu tự nhiên như gỗ, đá, sỏi, cát và nhiều chất liệu tự nhiên khác không gây hại cho môi trường hay con người. Chúng thường được sử dụng trong ngành xây dựng và tạo dựng.
Tóm lại, trong cả y học, sinh học và thảo dược học, "lành tính" mô tả các đối tượng, sự việc hay hiện tượng không gây hại đến sức khỏe, môi trường hay con người và thường không đòi hỏi điều trị hoặc can thiệp nghiêm trọng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lành tính":
Nghiên cứu sự phân hủy lipid trong cá đông lạnh đã dẫn đến việc phát triển một phương pháp đơn giản và nhanh chóng để chiết xuất và tinh chế lipid từ các vật liệu sinh học. Toàn bộ quy trình có thể được thực hiện trong khoảng 10 phút; nó hiệu quả, có thể tái lập và không có sự thao tác gây hại. Mô ướt được đồng nhất hóa với hỗn hợp chloroform và methanol theo tỷ lệ sao cho hệ thống tan được hình thành với nước trong mô. Sau khi pha loãng với chloroform và nước, dịch đồng nhất được phân tách thành hai lớp, lớp chloroform chứa toàn bộ lipid và lớp methanol chứa tất cả các hợp chất không phải là lipid. Một chiết xuất lipid tinh khiết được thu nhận chỉ đơn giản bằng cách tách lớp chloroform. Phương pháp này đã được áp dụng cho cơ cá và có thể dễ dàng thích nghi để sử dụng với các mô khác.
Các nghiên cứu về phân hủy lipid trong cá đông lạnh đã dẫn đến việc phát triển một phương pháp đơn giản và nhanh chóng để chiết xuất và tinh lọc lipid từ các vật liệu sinh học. Toàn bộ quy trình có thể được thực hiện trong khoảng 10 phút; nó hiệu quả, có thể tái sản xuất và không gây ra các thao tác gây hại. Mô ướt được đồng hóa với hỗn hợp chloroform và methanol theo tỷ lệ đảm bảo hệ thống tạo thành hòa tan với nước trong mô. Việc pha loãng với chloroform và nước tách đồng hóa thành hai lớp, lớp chloroform chứa tất cả các lipid và lớp methanolic chứa tất cả các phi lipid. Một chiết xuất lipid tinh khiết được thu được chỉ bằng cách cô lập lớp chloroform. Phương pháp này đã được áp dụng cho cơ cá và có thể dễ dàng điều chỉnh để sử dụng với các mô khác.
Việc tăng tốc và điều trị triệt để các vết thương mãn tính vẫn đang là một nhu cầu y tế lớn chưa được đáp ứng do các triệu chứng phức tạp từ rối loạn chuyển hóa của vi môi trường vết thương. Mặc dù có nhiều chiến lược và các hydrogel sinh học được phát triển, một phương pháp điều trị vết thương mãn tính hiệu quả và phổ biến vẫn là một điểm nghẽn. Với mục tiêu đẩy nhanh quá trình chữa lành vết thương mãn tính, nhiều hydrogel băng gạc có chức năng chống oxy hóa đã xuất hiện và được chứng minh là có thể tăng tốc độ chữa lành vết thương, đặc biệt là trong việc sửa chữa vết thương mãn tính. Chiến lược mới trong điều trị vết thương mãn tính do hydrogel chống oxy hóa mang lại có ý nghĩa to lớn đối với sức khỏe con người. Ở đây, ứng dụng của hydrogel chống oxy hóa trong việc sửa chữa vết thương mãn tính được thảo luận một cách hệ thống, nhằm cung cấp một tài liệu tham khảo lý thuyết quan trọng cho những đột phá tiếp theo trong việc chữa lành vết thương mãn tính.
Nghiên cứu di truyền bao gồm 19 trường hợp mắc động kinh lành tính ở trẻ em có tiêu điểm EEG vùng trung tâm thái dương (các xung rolandic), 36 cha mẹ ruột và 34 anh chị em ruột. Trong số anh chị em ruột này (không bao gồm các trường hợp mắc bệnh), 15% (5/34) có cơn co giật và xung rolandic, và 19% (6/32) chỉ có xung rolandic. Trong số cha mẹ ruột, 11% (5/38) có cơn co giật thời thơ ấu nhưng không có khi trưởng thành. Chỉ có 1 trong số 36 cha mẹ ruột (3%) có xung rolandic. Không có sự chênh lệch về giới. Kết quả được thử nghiệm với các giả thuyết di truyền khác nhau và cho thấy rằng một gene trội tự thân phụ thuộc vào tuổi thọ là nguyên nhân cho đặc điểm EEG này.
✓ Kết quả phẫu thuật trên một loạt các dị dạng động-tĩnh mạch (AVMs) nhỏ được xem là lý tưởng để điều trị bằng phẫu thuật tia xạ đã được đánh giá lại. Trong tổng cộng một loạt phẫu thuật vi phẫu gồm 360 bệnh nhân, có 67 bệnh nhân (19%) đã trải qua cắt bỏ AVMs có đường kính lớn nhất dưới 3 cm bất kể vị trí nào. Nhiều tổn thương trong số này (45%) nằm ở các khu vực có thể được coi là khó tiếp cận về mặt phẫu thuật, chẳng hạn như đồi thị, thân não, bán cầu não giữa và các vùng gần tâm thất. Loại bỏ hoàn toàn các AVM bằng kỹ thuật vi phẫu được thực hiện ở 63 bệnh nhân (94%) với tỷ lệ biến chứng phẫu thuật là 1.5% và không có tử vong trong phẫu thuật. Bệnh nhân có AVM ở bán cầu não có tỉ lệ chữa lành đạt 100% và không có biến chứng thần kinh nào. Phẫu thuật mở sọ có hướng dẫn định vị đã được sử dụng trong 14 bệnh nhân (21%) để định vị và cắt bỏ các dị dạng ở sâu hoặc bị che khuất. Kết quả từ năm trung tâm phẫu thuật tia xạ lớn điều trị các AVM có kích thước tương tự được phân tích. Kết quả phẫu thuật của các tác giả so sánh có lợi với các trung tâm phẫu thuật tia xạ, theo quan điểm của họ, điều này hỗ trợ kết luận rằng vi phẫu thuật thần kinh vượt trội hơn phẫu thuật tia xạ, ngoại trừ một tỷ lệ nhỏ tổn thương thực sự không thể điều trị bằng phẫu thuật do khó tiếp cận.
Cơn động kinh khu trú lành tính ở trẻ em (BFEC) là hình thức cơn động kinh phổ biến nhất, xảy ra ở trẻ em từ 3 đến 12 tuổi. Tiên lượng của nó luôn thuận lợi đối với vấn đề động kinh. Tuy nhiên, dữ liệu lâm sàng gần đây cho thấy rằng trẻ em mắc BFEC có khả năng cao hơn trong việc gặp khó khăn trong học tập và rối loạn hành vi so với những bạn cùng trang lứa. Chúng tôi báo cáo các phát hiện sơ bộ của một nghiên cứu hướng tới 22 trẻ em bị ảnh hưởng bởi BFEC. Những thay đổi điện lâm sàng và tâm lý được quan sát trong 18 tháng đầu của giai đoạn theo dõi củng cố kết luận của các nghiên cứu tâm lý gần đây nhấn mạnh mối tương quan giữa động kinh và hiệu suất nhận thức. Các rối loạn nhận thức chủ yếu ảnh hưởng đến các chức năng phi ngôn ngữ có mối tương quan đáng kể với tần suất xuất hiện của các cơn co giật và sự phóng điện sóng nhọn, cũng như với sự định khu của ổ động kinh ở bên bán cầu phải, trong khi các chức năng ở vùng trán như kiểm soát sự chú ý, tổ chức phản ứng và tốc độ vận động tinh, bị suy giảm trong sự hiện diện của BFEC đang hoạt động độc lập với sự định khu của ổ động kinh. Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng các chức năng nhận thức đang trưởng thành do một vùng vỏ não xa ổ động kinh dễ bị ảnh hưởng bởi cơn động kinh.
Các mô tuyến tiền liệt từ những bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt và tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) thường có khả năng viêm mô học, và một tỷ lệ trong số các bệnh nhân này có bằng chứng nhiễm
Các phát hiện gần đây cho thấy rằng phì đại tuyến tiền liệt lành tính (BPH) có một thành phần viêm. Các thử nghiệm lâm sàng đã ghi nhận rằng liệu pháp với chất đối kháng LHRH Cetrorelix gây ra sự cải thiện đáng kể và kéo dài về triệu chứng đường tiểu dưới (LUTS) ở nam giới có BPH triệu chứng. Chúng tôi đã điều tra cơ chế tác động và hiệu quả của Cetrorelix trong mô hình chuột rat BPH.
Các con chuột Wistar đực trưởng thành đã được sử dụng. BPH được gây ra ở chuột bằng cách tiêm dưới da TE 2 mg/ngày trong 4 tuần. Các động vật kiểm soát nhận tiêm dầu ngô. Sau khi gây BPH, chuột nhận Cetrorelix pamoate dạng depot với các liều 0.625, 1.25 và 12.5 mg/kg vào ngày 1 và 22, trong khi chuột TE-kiểm soát nhận tiêm dung dịch. Toàn bộ tuyến tiền liệt được cân và xử lý để phân tích RNA và protein. Các xét nghiệm RT-PCR thời gian thực cho nhiều cytokine viêm và yếu tố tăng trưởng đã được thực hiện. Các phân tích định lượng của thụ thể LHRH tuyến tiền liệt, LHRH, thụ thể androgen (AR) và 5α-reductase 2 được thực hiện bằng RT-PCR thời gian thực và phương pháp blot miễn dịch; DHT huyết thanh, LH, PSA, và IGF-1 được xác định bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch.
Các mức mRNA cho các cytokine viêm IFN-γ, IL-3, IL-4, IL-5, IL-6, IL-8, IL-13, IL-15, và IL-17 cũng như các yếu tố tăng trưởng EGF, FGF-2, FGF-7, FGF-8, FGF-14, TGF-β1, và VEGF-A đã giảm đáng kể dưới tác động của Cetrorelix 0.625 mg/kg (
Nghiên cứu này gợi ý rằng Cetrorelix giảm các cytokine viêm và yếu tố tăng trưởng trong tuyến tiền liệt chuột và, ở các liều không gây mức độ castration của testosterone, có thể làm giảm trọng lượng tuyến tiền liệt. Những phát hiện của chúng tôi làm sáng tỏ cơ chế tác động của các chất đối kháng LHRH trong BPH. Prostate 71:736–747, 2011. © 2010 Wiley-Liss, Inc.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10